A.CHỌN THUỐC TRỊ HO
Thuốc long đờm giúp làm tăng thể tích các dịch tiết đường hô hấp để chúng dễ bị bật ra ngoài, tránh vướng cổ gây khó chịu, thuốc có thể gây các cục đờm, đôi khi làm tắc nghẽn đường thở. Không dùng loại này cho những người suy hô hấp, hen suyễn, trẻ em và phụ nữ nuôi con bú.
Ho là động tác thở hắt mạnh, bật phát qua thanh môn đóng kín một cách cưỡng bức, làm thanh môn đột ngột mở ra, tống không khí cùng với những chất không mong muốn (gây vướng mắc khó chịu) ra ngoài khí quản. Đó là một cơ chế sinh lý bảo vệ cơ thể, nhưng cũng là triệu chứng của một số bệnh.
Các nguyên nhân gây ho gồm lao phổi, viêm phổi, hen suyễn, tâm phế mạn, ung thư phổi, phổi tắc nghẽn mạn (COPD), giãn phế quản, áp-xe phổi, tràn khí màng phổi, bệnh do virus, hút thuốc... Phần lớn trường hợp ho do viêm nhiễm vi khuẩn cấp tính (tai mũi họng, răng hàm mặt, phế quản, phổi...), do kích ứng, dị ứng và cả dị vật.
Hiện có nhiều loại thuốc trị ho (chưa kể Đông dược), có thể phân ra các nhóm chính sau:
1. Thuốc trị ho có tác dụng trung tâm: Qua hệ thần kinh trung ương, thuốc làm tăng ngưỡng của trung tâm ho ở não đối với phản xạ gây ho; hoặc qua hệ thần kinh ngoại biên làm giảm độ nhạy cảm của các thụ thể ở khí quản. Một số thuốc có tác dụng làm tê hay giảm đau trên thụ thể, bảo vệ thụ thể chống các kích thích hoặc gây giãn phế quản. Các thuốc đó là: codein, pholcodin, dextromethorphan, clobutanol, dropropizin, eprazinon, với các biệt dược Terpicod, Paderyl, Nospan, Maxcom... Các thuốc nhóm này, nhất là codein, pholcodin, dextromethorphan, không được dùng cho người suy hô hấp, hen suyễn, trẻ em, người nuôi con bú.
2. Thuốc long đờm: Gồm ipecacuanha, muối amoni, muối iod, một số tinh dầu như cajiput, bạc hà, gừng, natri benzoat, terpin. Các biệt dược: Ho long đờm, Acodin, Terpicod, Passedyl, Pulmonal, Terpin...
3. Thuốc tiêu chất nhầy: Làm thay đổi cấu trúc niêm dịch, giảm độ nhớt, dễ đào thải. Đó là các hoạt chất autylcystein, carbocystin, metylcystein, mesna... Các biệt dược: ACC, Acemuc, Turant, Rhinathiol, Mucusan... Nhóm thuốc này có thể gây tràn dịch phổi (ngập) và phá hỏng lớp chất nhày bảo vệ niêm mạc dạ dày. Cần thận trọng với người có tiền sử loét dạ dày - tá tràng. Thuốc cũng không nên dùng cho người có thai 3 tháng đầu thai kỳ và người nuôi con bú.
4. Thuốc giống giao cảm: Có tác dụng chủ vận alpha, gây nên co mạch niêm mạc mũi, trị sung huyết. Thuốc dùng toàn thân như phenylephrin, pseudoephedrin... hoặc tại chỗ như naphazolin.
5. Các thuốc kháng histamin: Có tác dụng làm dịu, trị ho và làm giảm dẫn truyền thần kinh cholinergic, làm giảm tiết dịch mũi (viêm mũi, chảy nước mũi vào họng khí quản gây ho). Nhóm thuốc này có diphenhydramin, chlorpheniramin... Các biệt dược: Toptusan, Toplexil, Tiffy, Rhumenol... Thuốc có tác dụng phụ là gây ngủ ban ngày, rất bất lợi cho nhiều công việc như vận hành máy, lái tàu xe, làm việc trên cao hoặc nơi nguy hiểm. Tuy nhiên, dùng về đêm lại có lợi. Thuốc không dùng cho người ho có đờm vì có thể gây ra những cục đờm tắc nghẽn, không dùng cho người hen suyễn.
6. Các thuốc làm dịu: Có tác dụng ngoại biên gián tiếp, bao lấy các thụ thể thần kinh cảm giác ở họng như cam thảo, mật ong, sucrose sirô. Nói chung các thuốc này dùng an toàn. Tuy nhiên, không nên dùng bất kỳ loại mật ong nào cho trẻ em dưới 1 tuổi.
7. Các thuốc tê: Tác dụng gián tiếp trên các thụ thể cảm giác. Được dùng qua đường hít, ngậm trong trường hợp ho khó chữa như viêm đường hô hấp trên, ung thư. Thuốc có thể làm mất tất cả các phản xạ có tác dụng bảo vệ phổi và gây co thắt phế quản, tạm thời làm mất phản xạ nuốt; vì vậy phải thận trọng khi dùng.
8. Thuốc trị ho phối hợp nhiều thành phần: Đây là vấn đề mà các nhà điều trị học còn nhiều bàn cãi và nhiều người cho là phi lôgic, mang lại nhiều tác dụng phụ. Các chất phối hợp gồm kháng sinh, vitamin, sát khuẩn (guaifenesin), opioid, các chất làm long đờm, tiêu chất nhày, đặc biệt phải kể đến các chất giống giao cảm và kháng histamin. Hai thuốc này có rất nhiều tác dụng phụ nặng nề với những người tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh mạch vành, bệnh tuyến giáp, glaucoma, u phì đại tuyến tiền liệt, ho có đờm, người mang thai, trẻ con và người cao tuổi, người suy hô hấp, bệnh tim, bệnh lý đường hô hấp và tai biến mạch máu não.
Cần cân nhắc và thận trọng với các biệt dược như : Actifed, Actitab, Ameflu, Ametussin, Atussin, Codepect, Contac, Dicolsin, Tiffy, Rhumenol... Chúng đều là những thuốc phối hợp từ 3 đến 5 chất, ngoài tác dụng phụ lại còn tương tác bất lợi với các thuốc khác dùng cùng lúc. Đang dùng thuốc lại vui chén với bạn bè thì khó lường hết những đột biến sau đó.
Ho có thể chỉ là một triệu chứng gây khó chịu, nhưng cũng có thể biểu hiện một bệnh lý nghiêm trọng, đặc biệt với trẻ em và người cao tuổi. Phải dè chừng khi ho có kèm theo sốt, khó thở, tím tái, ho kéo dài, suy kiệt...; bệnh nhân cần được khám xét cẩn thận. Liệu pháp được lựa chọn phải dựa vào đặc điểm ho khan hay ho có đờm. Ho khan thường do cảm lạnh, cúm, viêm nhiễm đường hô hấp trên, chảy nước mũi vào trong hoặc do kích ứng; có thể dùng codein, pholcodin, dextromethorphan và kháng histamin về đêm.
Ho có đờm thường liên quan đến các bệnh đường hô hấp mạn tính. Việc dùng các thuốc long đờm, tiêu chất nhày, giãn phế quản kết hợp với corticoid, các enzym (serrapeptase hoặc chymotrypsin) và kháng sinh là khá hữu ích. Có ít bằng chứng cho thấy, các thuốc ho tác dụng trung tâm có hiệu quả trong trường hợp ho nặng.
DS Phạm Thiệp, Sức Khoẻ & Đời Sống
B. KHI NÀO CẦN DÙNG THUỐC BỔ, VITAMIN VÀ KHOÁNG CHẤT ?
|
Vitamin và khoáng chất chỉ bổ sung khi chế độ ăn hằng ngày không cung cấp đủ.
|
Chỉ bổ sung thuốc bổ và vi chất khi chế độ ăn hằng ngày không đủ hoặc thiên lệch. Trẻ biếng ăn, người mắc bệnh hoặc làm việc, vận động quá căng thẳng và phụ nữ mang thai là những trường hợp cần được bổ sung dinh dưỡng.
Vitamin và khoáng chất có trong các loại thực phẩm hằng ngày nếu chế độ ăn uống hợp lý thì không cần phải bổ sung, việc ăn uống hợp lý dựa trên 03 cơ sở:
1. Ăn đa dạng, trên 20 loại thực phẩm khác nhau trong một ngày vì mỗi loại có chất dinh dưỡng, vitamin, khoáng chất khác nhau nên cơ thể hấp thụ đa dạng.
2. Ăn chừng mực, không quá nhiều hoặc quá ít, không có thức ăn xấu hay tốt mỗi loại thực phẩm đều có chất dinh dưỡng và chất độc hại nào đó. Nếu ăn chừng mực thì nhận được đủ chất mà không bị ngộ độc.
3. Ăn gần với thiên nhiên, ít chế biến thì thực phẩm sẽ ít bị thay đổi bản chất và giữ được nhiều dinh dưỡng. Ví dụ : ăn rau, quả vẫn tốt hơn uống nước ngọt trái cây; ăn thịt cá vẫn hơn các dạng đạm, acid amin...
Nên sử dụng vitamin và khoáng chất khi nào?
Chỉ sử dụng khi chế độ ăn thường xuyên không đầy đủ, ăn uống thiên lệch (ví dụ không ăn rau hoặc quá ít, dùng nhiều đồ công nghiệp như mì gói, bánh kẹo, khoai tây chiên...). Những trường hợp cần bổ sung dinh dưỡng là người bệnh khó ăn, trẻ biếng ăn sinh thiếu chất (một ngày ăn dưới 100 g thịt, 100 g gạo, 200 g trái cây, 500 ml sữa...), người làm việc căng thẳng, vận động quá nhiều, tiêu hao năng lượng lớn, phụ nữ mang thai có nhu cầu axit folic, canxi, sắt...
Liệu trẻ uống sữa bổ sung nhiều loại vitamin và khoáng chất thường xuyên và lâu dài có lợi?
Vitamin có hai dạng: dạng thuốc và dạng vi chất bổ sung vào thực phẩm, ví dụ như đường bổ sung vitamin A, muối bổ sung iod, sữa bổ sung nhiều loại vitamin A, B, C, D... Trong hai dạng này, dạng vi chất bổ sung vào thực phẩm an toàn hơn vì thuốc thường được sản xuất theo liều lượng cao. Ví dụ : viên vitamin A có hàm lượng lên tới 200.000 đơn vị, trong khi nhu cầu cơ thể chỉ là 1.000 đơn vị/ngày. Do đó, trẻ có thể dùng sữa bổ sung vi chất lâu dài mà không bị hại.
Lưu ý khi dùng vitamin:
- Sử dụng vitamin liều cao phải có chỉ định của bác sĩ. Nếu cần thiết thì chỉ nên mua loại đa sinh tố khoáng chất, khi mệt mỏi, làm việc căng thẳng, việc uống viên bổ sủi bọt chỉ có tác dụng hỗ trợ tâm lý chứ không hẳn là cần thiết.
- Hầu hết vitamin đều khó gây ngộ độc, song cần lưu ý khi cho trẻ sử dụng nhiều.
- Vitamin D có thể dẫn đến táo bón cho trẻ.
- Vitamin A và D nếu dùng liều quá cao (hàng triệu đơn vị) có thể gây ngộ độc cấp tính, song rất hiếm xảy ra.
- Về nguyên tắc, những vitamin tan trong dầu mỡ như A, D, E, K thì có thể gây ngộ độc vì khi sử dụng dồn dập chúng sẽ thải không kịp, dễ tích lũy ở gan gây hại.
- Vitamin C uống nhiều có thể gây sỏi thận vì nó tạo ra chất muối khoáng không hòa tan.
Một số thực phẩm cũng cấp vitamin:
- Vitamin A thực thụ chỉ có trong thức ăn động vật như gan của cá, heo, bò, gà..., trong chất béo của sữa, lòng đỏ trứng, rau trái màu vàng, cam đậm.
- Vitamin C có trong trái cây tươi, đặc biệt tập trung ở bưởi, cam, chanh. Tuy nhiên, vitamin trong rau củ quả thường bị mất trong quá trình chế biến, nên ăn sống tốt hơn.
- Vitamin B1 có trong các loại ngũ cốc và thịt.
- Vitamin E có nhiều trong thực phẩm chứa nhiều chất béo như đậu phộng, mè, lòng đỏ trứng, trong mầm lúa, mầm đậu đỗ, giá sống...
“Bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng, Trung tâm Dinh dưỡng TP HCM “